Tags: Nhà Xuất Bản Thế Giới , OMEGA PLUS+

Phương Pháp Nghiên Cứu Luật Học - Phạm Duy Nghĩa - Omega Plus

$21.99

NỘI DUNG CHÍNH Trong bối cảnh pháp luật ngày càng phức tạp và gắn chặt với mọi mặt của đời sống, “Phương pháp nghiên cứu luật học” của PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa ra đời như một cuốn sách nền tảng, giúp người học và người hành nghề không chỉ...

NỘI DUNG CHÍNH

Trong bối cảnh pháp luật ngày càng phức tạp và gắn chặt với mọi mặt của đời sống, “Phương pháp nghiên cứu luật học” của PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa ra đời như một cuốn sách nền tảng, giúp người học và người hành nghề không chỉ biết luật mà còn tư duy và làm việc như một luật sư thực thụ.

Cuốn sách dẫn dắt người đọc từ những học thuyết pháp lý cơ bản đến cách đọc – giải mã văn bản pháp luật, phân tích bản án, nhận diện vấn đề pháp lý và lựa chọn phương án giải quyết phù hợp trong các tình huống thực tế. 

Điểm đặc biệt của sách nằm ở sự kết hợp chặt chẽ giữa nền tảng học thuật và kỹ năng thực hành, giúp người học hình thành tư duy “thinking like a lawyer” – một năng lực còn thiếu hụt trong nhiều giáo trình luật hiện nay vốn thiên về truyền đạt quy định pháp luật hơn là phương pháp tư duy.

Không dừng lại ở việc trang bị kiến thức, “Phương pháp nghiên cứu luật học” còn là cuốn sách công cụ hướng dẫn người đọc cách đặt câu hỏi nghiên cứu đúng, tự tổ chức và tiến hành nghiên cứu, viết tiểu luận, bình luận án, khóa luận hay luận văn với lập luận rõ ràng và mạch lạc. Đặc biệt, sách nhấn mạnh một yêu cầu cốt lõi của nghề luật: nghiên cứu tốt là chưa đủ, còn phải viết để thuyết phục và viết để thành công.

Tiệm cận các chuẩn mực quốc tế trong nghiên cứu luật học nhưng được đặt trong bối cảnh Việt Nam, cuốn sách vừa mang tính hàn lâm, vừa có giá trị ứng dụng cao. Đây cũng là cuốn nền tảng trong bộ sách chuyên khảo 5 tập của PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa, cùng với:

  • Đại cương pháp luật & Quản trị rủi ro pháp lý
  • Luật kinh tế: Luật của người kinh doanh
  • Trọng tài & Giải quyết tranh chấp trong dự án đầu tư hạ tầng
  • Gập ghềnh công lý: Những tâm sự về đạo nghề

Bố cục cuốn sách gồm 11 chương:

Chương I: Nghiên cứu pháp luật: Khái niệm và ý nghĩa 

Chương II: Nghiên cứu học thuyết: Một phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống 

Chương III: Khung lý thuyết trong nghiên cứu pháp luật 

Chương IV: Các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội trong nghiên cứu pháp luật 

Chương V: Lựa chọn và diễn đạt câu hỏi nghiên cứu 

Chương VI: Đánh giá tài liệu và xây dựng đề cương nghiên cứu 

Chương VII: Kỹ năng viết bài nghiên cứu pháp luật 

Chương VIII: Thuyết trình bài nghiên cứu pháp luật 

Chương IX: Đạo đức của người nghiên cứu pháp luật 

Thiết kế bìa sách theo phong cách trừu tượng – hình học, thống nhất trong toàn bộ series, gợi mở pháp luật như một hệ thống tư duy có cấu trúc, đồng thời khẳng định đây là bộ sách dành cho nghiên cứu và hành nghề chuyên sâu, không phải dòng sách nhập môn hay phổ thông.

Với nền tảng học thuật vững chắc và kinh nghiệm thực tiễn phong phú của tác giả – một học giả luật học, giảng viên cao cấp và trọng tài viên quốc tế – “Phương pháp nghiên cứu luật học” là lựa chọn không thể thiếu cho sinh viên luật giai đoạn nâng cao, học viên sau đại học, luật sư, thẩm phán, trọng tài viên, cũng như những ai quan tâm đến tư duy pháp lý và quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh. 

Đây là cuốn sách để bắt đầu nghiên cứu luật học một cách nghiêm túc – và để đi xa hơn trên con đường hành nghề pháp lý.

Sách thuộc Tủ sách Pháp luât của Omega+.

THÔNG TIN TÁC GIẢ

Phạm Duy Nghĩa

Ông Phạm Duy Nghĩa có bằng Cử nhân và Tiến sĩ Luật, Đại học Tổng hợp Leipzig (1991) chuyên về pháp luật kinh doanh.

Là trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam VIAC, ông đảm nhận vai trò chủ tịch, trọng tài viên của nhiều Hội đồng trọng tài giải quyết các tranh chấp quốc tế về kinh doanh, thương mại, xây dựng, đầu tư, mua bán và sáp nhập.

Ngoài là học giả Fulbright tại Harvard Law School (2002-2003), ông còn là giảng viên cao cấp, từng giảng dạy tại Khoa Luật (nay là Trường Đại học Luật) – Đại học Quốc Gia Hà Nội (1996-2009), Khoa Luật –  Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh (2010-2017), Trường Chính sách công & Quản lý Fulbright (2018-2025), và hiện đang công tác tại Khoa Luật Trường Đại học Tôn Đức Thắng.

TRÍCH ĐOẠN/ CÂU QUOTE HAY 

 “Luật học là một ngành học truyền thống, tuy vậy việc dạy, học và hành nghề luật đang thay đổi nhanh. Trên thế giới, khái quát có hai mô hình đào tạo luật. Theo định hướng hành nghề ở Mỹ, người đã tốt nghiệp đại học (một ngành bất kỳ) sẽ được đào tạo 3-4 năm (toàn thời gian) trong một trường luật (có tên trong danh sách các trường được Hiệp hội luật sư Hoa Kỳ công nhận) để được cấp bằng juris doctor (JD), một điều kiện dự thi chuẩn mực để lấy thẻ hành nghề luật sư. Ở nhiều nước khác, học vị ngành luật gồm cử nhân luật (LLB), thạc sĩ luật (LLM), tiến sĩ luật (PhD); (tùy quốc gia, khái niệm thạc sĩ luật (LLM) rất khác nhau, đôi khi dành cho người chưa có bằng LLB hoặc người học từ hệ thống pháp luật nước ngoài). Mô hình JD kiểu Hoa Kỳ đã được du nhập vào một số nước, với mức độ thành công khác nhau. Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, từ đào tạo kiểu hàn lâm để cấp bằng cử nhân luật (LLB) truyền thống, đã có thời gian chuyển một phần sang đào tạo JD, với quy mô và tốc độ chuyển đổi hạn chế. (Lưu ý: học vị thường chưa đủ là điều kiện để hành nghề luật sư ở các nước này, người học còn phải học thêm những chương trình hành nghề). Người hành nghề trợ lý luật (nhân viên văn phòng luật, thi hành án, người giúp việc trong dịch vụ pháp lý - paralegal) thường được đào tạo nghề ở bậc trung cấp, cao đẳng là đủ.”

“Học để lấy học vị cử nhân, thạc sĩ hoặc tiến sĩ là đào tạo hàn lâm, khác với học để hành nghề luật. Để luật sư, thẩm phán và công tố viên có cùng một nền tảng kiến thức, người ta thường dạy nghề chung cho ba nhóm hành nghề này. Triết lý này (Einheitsjurist) bắt nguồn từ Đức, được du nhập sang Nhật, Hàn Quốc, một thời cũng đã được Việt Nam tham khảo, ít nhất trong chủ trương, khi Học viện Tư pháp (thuộc Bộ Tư pháp) được thành lập vào năm 1998. Tuy nhiên, triết lý này không được triển khai triệt để và có vẻ đã không còn thuyết phục ở Việt Nam. Hiện nay, Học viện Tư pháp (thuộc Bộ tư pháp) chỉ còn đảm trách những chương trình dạy hành nghề cho luật sư, công chứng, giám định viên tư pháp, thừa phát lại. Trường ĐH Kiểm sát (thuộc Viện KSNDTC) đào tạo kiểm sát viên. Học viện Tòa án (thuộc TANDTC) đào tạo thẩm phán, thư ký tòa án. Liên đoàn Luật sư Việt Nam có chức năng bồi dưỡng nghề cho luật sư. Việc bồi dưỡng với số giờ quy định hằng năm được thực hiện bởi Liên đoàn luật sư, Hiệp hội công tố hay Hiệp hội thẩm phán theo truyền thống riêng của từng nghề.”

“Mỗi ngày trôi qua người ta có thể tiến hành vô số hành vi tìm hiểu, tra cứu, nghiên cứu mà không hề ý thức về nó. Để thống kê có bao nhiêu ứng dụng trí tuệ nhân tạo (những con AI) được dùng phổ biến trong nghề luật, những ứng dụng nào là chuyên dụng cho nghề luật sư, việc ấy cần tìm hiểu, thống kê, phân tích. Nghiên cứu thị trường, tìm kiếm, giữ chân khách hàng, tập huấn nhân viên, trong công việc thường ngày của người hành nghề luật, mỗi quyết định thường được đưa ra dựa trên kết quả của vô số nghiên cứu, tra cứu được tiến hành như một thói quen nghề nghiệp mà ít khi người ta ý thức về nó.”

“Khác với tìm kiếm, tra cứu thường ngày, nghiên cứu khoa học được hiểu trong sách này hẹp hơn, chỉ bao gồm các hành vi được tiến hành một cách có hệ thống, dựa trên một phương pháp, dựa trên một hoặc nhiều khung lý thuyết chắc chắn, nhằm góp phần nhận biết, giải thích một sự vật, sự việc, từ đó đóng góp thêm, đóng góp điểm mới vào khối tri thức sẵn có của con người. Nghiên cứu khoa học là hành vi được tiến hành có chủ đích tìm hiểu tri thức mới, được thực hiện với phương pháp và quy trình khoa học. Nghiên cứu khoa học có thể được phân thành 4 loại như sau: (i) nghiên cứu cơ bản thuần túy (pure basic research), (ii) nghiên cứu cơ bản chiến lược (strategic basic research), (iii) nghiên cứu ứng dụng (applied research) và (iv) phát triển thử nghiệm (experimental development).”

“Ngoài hoạt động nghiên cứu ứng dụng thường ngày mà người hành nghề luật thường tiến hành, với tính chất của hoạt động nghiên cứu khoa học, có thể phân chia nghiên cứu luật học thành 04 loại: (i) nghiên cứu học thuyết pháp lý, (ii) nghiên cứu xây dựng pháp luật, (iii) nghiên cứu lý thuyết để hiểu các nguyên tắc pháp luật, gồm pháp luật nội dung cũng như tố tụng và quá trình thực thi chúng trong một lĩnh vực cụ thể, và (iv) nghiên cứu nền tảng nhằm giải thích pháp luật như một hiện tượng xã hội trong liên ngành với khoa học lịch sử, ngôn ngữ, kinh tế, chính trị, xã hội hay nhân chủng học.”

“Nghiên cứu luật học ngày càng liên ngành, tương tác với kinh tế học, xã hội học, chính trị học, nhân chủng học, lịch sử, văn hóa. Để hiểu các thể chế và quy trình luật pháp vận hành, cần tới góc nhìn phức hợp, liên thuộc giữa nhiều bên liên quan (complexity theory). Những nghiên cứu như vậy có thể được xem là nghiên cứu nền tảng (fundamental research) để giải thích pháp luật như một hiện tượng xã hội. Ví dụ: nhằm thúc đẩy công nghiệp công nghệ số, các sản phẩm và dịch vụ liên quan đến tài sản mã hóa (crypto) và chuỗi khối (blockchain), vừa giải thích vì sao Việt Nam là một thị trường tài sản mã hóa năng động, vừa bảo vệ nhà đầu tư, chống rửa tiền, chống lừa đảo, vừa tạo kênh thu hút vốn quốc tế trong thời đại số. Những nghiên cứu như vậy có tính nền tảng, chuẩn bị cho các chính sách pháp luật linh hoạt về tài sản mã hóa, thúc đẩy quá trình chuyển sang nền kinh tế số ở nước ta.”

Giá sản phẩm trên Tiki đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh, thuế nhập khẩu (đối với đơn hàng giao từ nước ngoài có giá trị trên 1 triệu đồng).....

Recently Viewed Products